“Tư tưởng Dân” trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Đăng ngày 03 - 10 - 2024
Lượt xem: 43
100%

 

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho Đảng và Nhân dân ta một di sản tư tưởng vô cùng giá trị và lớn lao, đó là giá trị lý luận - kim chỉ nam soi đường, chỉ lối cho cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Trong những di sản tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, “Tư tưởng Dân” rất đặc sắc của Người.

Trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, không phải đến Chủ tịch Hồ Chí Minh, dân tộc ta mới đưa ra “Tư tưởng Dân”. Trong lịch sử hình thành, tồn tại và phát triển của dân tộc, do yêu cầu tất yếu của quy luật dựng nước và giữ nước mà cha ông ta đã sớm ý thức được vị thế và vai trò to lớn, không thể thiếu của nhân dân. Và cũng chính từ đây, đã hình thành “Tư tưởng Dân” (tức tư tưởng thân dân, cận dân) trong quan niệm của lịch sử tư tưởng dân tộc thông qua các đánh giá và ghi nhận về vai trò của nhân dân ở các triều đại phong kiến. Thể hiện rõ nhất và điển hình nhất về “Tư tưởng Dân” là việc tổ chức Hội nghị Diên Hồng của nhà Trần. Có thể nói “Hội nghị Diên Hồng là một sáng tạo rất độc đáo của nhà Trần, là biểu hiện của ý thức tin tưởng vào sức mạnh và trí tuệ của toàn dân. Mãi mãi “Hội nghị Diên Hồng” sẽ ăn sâu và trao truyền trong tâm thức của người dân Việt Nam như một sức mạnh của truyền thống gắn liền với mục tiêu phấn đấu cho nền dân chủ hiện đại. Kể từ đó hai chữ Diên Hồng đã trở thành biểu trưng cho ý chí thống nhất của một dân tộc, thể hiện sự đồng lòng nhất trí giữa Nhà nước với người dân trong mối quan hệ vua - tôi, trên - dưới... Hội nghị Diên Hồng cũng mang ý nghĩa như một nguyên lý tạo nên sức mạnh dân tộc trước những thử thách của lịch sử và trong chừng mực nào đó cũng biểu hiện nhân tố cận dân, thân dân”. Đặc biệt, đến triều đại Hậu Lê, thì tư tưởng thân dân được bộc lộ và định hình rất rõ nét ở Nguyễn Trãi. Dân là mối quan tâm thường trực ở Nguyễn Trãi. Ông quan niệm “Dân” là nền tảng quan trọng của xã hội, lực lượng chính để bảo vệ đất nước và phát triển xã hội. Chữ “dân” được nhắc tới trực tiếp 155 lần, ông đặc biệt chú ý đến những tầng lớp nhỏ bé trong xã hội, “người dân trong thôn cùng xóm vắng”, “dân manh lệ”, “xích tử”, “sinh linh”, “bách tính”,… Tư tưởng thân dân của Nguyễn Trãi là một tư tưởng rất tiến bộ, đánh giá về vị thế và vai trò của nhân dân trên tất cả các phương diện: về sức mạnh quyết định của dân: “… mến người có nhân là dân, mà chở thuyền và lật thuyền cũng là dân”; về lực lượng tạo ra của cải cho xã hội: “thường nghĩ những quy mô lộng lẫy đều do sức lao khổ của quân dân” và do đó, phải “Ăn lộc đền ơn kẻ cấy cày”; về mối quan hệ nhân quả, cộng sinh, phải nhận thấy rõ: dân gắn liền với nước, yêu nước là thương dân; về trách nhiệm và lòng nhân nghĩa: phải thương dân, trọng dân, chăm lo đến đời sống của nhân dân: “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”. Như vậy là, “từ vai trò quan trọng của dân đến nhân nghĩa, yêu nước và thương dân, Nguyễn Trãi đã để lại cho hậu thế những tư tưởng lớn, vượt lên trên những khuôn khổ của học thuyết chính trị đạo đức nho giáo, đạt tới những giá trị văn hoá có tính phổ biến của nhân loại, có ý nghĩa phương pháp luận cho nhiều thế hệ người Việt Nam trong cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc và hạnh phúc, điển hình là tư tưởng thân dân”. 

Tư tưởng thân dân ở Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thấm đậm tinh thần dân chủ thân dân. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi: “Thân dân tức là phục vụ nhân dân, đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết. Nói một cách khác, tức là “tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc”. Như vậy, Hồ Chí Minh đã rất thấu hiểu điều này và chính Người là người đầu tiên đã cụ thể hóa “Tư tưởng Dân” và lãnh đạo tiến trình hiện thực hóa “Tư tưởng Dân” thông qua thực hành dân chủ ở Việt Nam. Trước hết, theo Hồ Chí Minh, thân dân chính là phải thừa nhận và triển khai thực hiện để dân làm chủ khi nhân dân Việt Nam đã là chủ đất nước mình, và do vậy, dân chủ nghĩa là dân là chủ và dân làm chủ. Với tâm niệm “nước lấy dân làm gốc”, Hồ Chí Minh cho rằng, “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”. Song, không dừng lại đó, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh để tư tưởng thân dân được hoàn thiện hơn và phát huy được hết sức mạnh của nhân dân thì vị thế của người dân phải được gắn liền với nơi hội tụ sức mạnh của nhân dân - tức dân tộc. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, dân chủ thân dân, tức là nhân dân được hưởng quyền lợi và lợi ích chính đáng của mình. Quyền lợi của nhân dân với nghĩa rộng như Hồ Chí Minh đã nói: “nước độc lập mà dân không được hưởng tự do, hạnh phúc thì độc lập cũng chẳng nghĩa lý gì”. Với nghĩa hẹp, đó là những quyền lợi mà thiết thân hàng ngày của nhân dân. Nhiệm vụ của nhà nước là phải: “Làm cho dân có ăn. Làm cho dân có mặc. Làm cho dân có chỗ ở. Làm cho dân có học hành”. Đây là quan điểm rất nhân văn, rất hiện đại trong “Tư tưởng Dân” ở Chủ tịch Hồ Chí Minh.  

“Tư tưởng Dân” là tư tưởng nhất quán, xuyên suốt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh mà điều này được thể hiện rõ trong Di chúc của Người. Bởi vậy, ngay phần mở đầu của Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cập ngay đến quá trình phấn đấu của mình, đó là phấn đấu trước hết là vì Tổ quốc và nhân dân. Người nói: “Suốt đời tôi hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”.

Như vậy, trong Di chúc, “Tư tưởng Dân” lại trở thành điểm nhấn trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Do đó, nên mọi việc khi thực hiện phải nghĩ đến nhân dân, không được làm ảnh hưởng đến nhân dân. Người đề nghị: “Sau khi tôi đã qua đời, chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình, để khỏi lãng phí thì giờ và tiền bạc của nhân dân”. Và cũng từ đây, Người yêu cầu sau khi thắng lợi, Đảng, Nhà nước và Nhân dân phải bắt tay ngay vào việc xây dựng đất nước, phục hồi sự phát triển của dân tộc. “Ngay sau khi cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đã hoàn toàn thắng lợi, công việc toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta phải ra sức làm là mau chóng hàn gắn vết thương nghiêm trọng do đế quốc Mỹ gây ra trong cuộc chiến tranh xâm lược dã man. Đó là một công việc cực kỳ to lớn, phức tạp và khó khăn”.

Theo tư tưởng thân dân (quan tâm sát sao đến nhân dân) mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã yêu cầu phải chú ý ngay đến “công việc đầu tiên” là “đối với con người” (nhân dân). Ở đây, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã yêu cầu phải quan tâm tỉ mỉ, sát sao và có những việc làm cụ thể, có những chính sách phù hợp cho tất cả các tầng lớp nhân dân: đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình (cán bộ, binh sĩ, dân quân, du kích, thanh niên xung phong...); đối với các liệt sĩ; đối với cha mẹ, vợ con (của thương binh và liệt sĩ); đối với những chiến sĩ trẻ tuổi trong các lực lượng vũ trang nhân dân và thanh niên xung phong; đối với phụ nữ; đối với đồng bào nông dân; thậm chí cả đối với những nạn nhân của chế độ xã hội cũ;… Bởi vậy, là lực lượng cầm quyền thì “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hoá, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”.

“Tư tưởng Dân khi được tiếp cận dưới góc độ dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng nhân dân phải được sống trong một dân tộc thống nhất, to đẹp; do đó, phải quyết tâm làm cho đất nước, dân tộc được “xây dựng hơn mười ngày nay”. Tuy nhiên, theo Người, “công việc trên đây là rất to lớn, nặng nề, và phức tạp, mà cũng là rất vẻ vang. Đây là một cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi”. Bởi vậy, một điều tất yếu là phải dựa vào dân, chỉ có dựa vào lực lượng vĩ đại của dân mới thành công. “Để giành lấy thắng lợi trong cuộc chiến đấu khổng lồ này cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân”. Song, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, dân tộc ở đây không chỉ nên bó hẹp trong một quốc gia, mà dân tộc muốn có vị thế chân chính thì phải gắn với cộng đồng quốc tế. Bởi vậy, Người đã có dự định, sau khi nước nhà thống nhất, Người sẽ trước hết đi làm nghĩa vụ đối với dân tộc: “tôi sẽ đi khắp hai miền Nam Bắc”; song, “kế theo đó, tôi sẽ thay mặt nhân dân ta đi thăm và cảm ơn các nước anh em trong phe xã hội chủ nghĩa, và các nước bầu bạn khắp năm châu…”

Như vậy, một lần nữa, thông qua Di chúc của mình, “Tư tưởng Dân” (nhân dân và dân tộc) đã đuợc Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức và đã trở thành lý tưởng trong cuộc đời hoạt động cách mạng và Người luôn tâm niệm để phấn đấu hết mình cho hạnh phúc của nhân dân và sự trường tồn của dân tộc.

“Tư tưởng Dân” của Chủ tịch Hồ Chí Minh dưới góc độ dân tộc cũng được Đảng ta vận dụng, cụ thể hóa trong thực tiễn. Sinh thời, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đối với Việt Nam, vị thế dân tộc và lợi ích dân tộc (quốc gia) là quan trọng, thiêng liêng và điều này được thể hiện ở độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ. Trong bối cảnh quốc tế và khu vực có những diễn biến phức tạp, khó lường như hiện nay, nhất là khi các quốc gia trên thế giới đương đại đều xuất phát từ lợi ích dân tộc để xử lý các mối quan hệ và giải quyết mọi vấn đề đang diễn ra thì việc Đảng ta đưa ra quan điểm chỉ đạo trên là đúng đắn, kịp thời trước những tình thế và diễn biến phức tạp đang diễn ra trên thế giới. Do đó, hơn lúc nào hết, việc quán triệt và thấm nhuần “Tư tưởng Dân” (lợi ích dân tộc) của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong các hoạt động đối ngoại là cơ sở quan trọng để bảo vệ tốt nhất lợi ích quốc gia - dân tộc./.

(Một số nội dung sưu tầm từ Tạp chí Xây dựng Đảng)

Tin liên quan

Tin mới nhất

Tăng cường học tập và nâng cao năng lực tư duy của đội ngũ cán bộ, đảng viên theo tư tưởng Hồ...(03/10/2024 2:39 CH)

Bác Hồ với công tác thanh tra, kiểm tra(14/11/2022 7:48 SA)

Tư tưởng Hồ Chí Minh về tấm gương đạo đức yêu thương con người(19/04/2022 2:27 CH)

Bác Hồ với đức tin và đoàn kết tôn giáo(07/03/2022 4:03 CH)

Giáo dục, bồi dưỡng thế hệ trẻ theo tư tưởng Hồ Chí Minh(07/03/2022 2:55 CH)

62 người đang online
°